Việc thực hiện Chỉ thị 02/CT-UBND và Kế hoạch 93a/KH-UBND của UBND tỉnh của huyện Khoái Châu

1. Công tác rà soát, thống kê các trường hợp vi phạm:

+ Số trường hợp vi phạm hành lang an toàn đường bộ là926 trường hợp. Trong đó trước Chỉ thị 02/CT-UBND là 877 trường hợp; sau Chỉ thị 02/CT-UBND là 49 trường hợp.

+ Số trường hợp vi phạm xây dựng các công trình thuộc đất thủy lợi được rà soát thống kê là 884 trường hợp, diện tích 50.856,8m2. Trong đó trước Chỉ thị 02/CT-UBND là 809 trường hợp, diện tích 49.574,8m2; sau Chỉ thị 02/CT-UBND là 75 trường hợp, diện tích 4.072,6m2.

+ Số trường hợp vi phạm xây dựng các công trình, nhà ở trên đất nông nghiệp: 2.197 trường hợp, diện tích 293.814,33m2. Vi phạm trước Chỉ thị 02/CT-UBND là 1.982 trường hợp, diện tích 255.128,13m2; vi phạm sau Chỉ thị 02/CT-UBND là 215 trường hợp, diện tích 38.596,10m2.

Số vi phạm cụ thể từng xã: Đông Kết 291, Hàm Tử 90, Phùng Hưng 150, Dân Tiến 221, Đại Tập 84, Đồng Tiến 36, Hồng Tiến 96, Thị trấn Khoái Châu 173, Tứ Dân 90, An Vĩ 176, Bình Kiều 27, Nhuế Dương 27, Chí Tân 26, Dạ Trạch 109, Đại Hưng 25, Đông Ninh 30, Liên Khê 143, Bình Minh 30, Đông Tảo 52, Tân Dân 203, Thành Công 12, Việt Hoà 30, Tân Châu 3, Ông Đình 34, Thuần Hưng 39.

Tổng số vi phạm lớn, những loại vi phạm phải giải toả (nhà xưởng, nhà ở, nhà tạm) là 522 trường hợp (nhà xưởng, cửa hàng 97 trường hợp, nhà ở 193 trường hợp, nhà tạm 232 trường hợp), chiếm 23,75% tổng số vi phạm đã thống kê.

+ Số trường hợp vi phạm bến bãi tập kết vật liệu xây dựng trái phép:

Số trường hợp vi phạm bến bãi tập kết vật liệu không nằm trong quy hoạch:  Có 10 bến đưa vào diện phải thanh lý, giải tỏa; trên địa bàn huyện còn lại 08 bến trong đó 04 bến được cấp phép, 04 bến nằm trong quy hoạch.

2. Kết quả xử lý vi phạm:

2.1. Xử lý vi phạm xây dựng công trình, nhà ở trên đất nông nghiệp:

Đã lập biên bản, chưa ban hành quyết định xử phạt là 1.416 trường hợp.

Đã lập biên bản, ban hành quyết định xử phạt là 79 trường hợp.

Đã giải tỏa tổng số 123/2.197 trường hợp, đạt tỷ lệ 5,59% tổng số trường hợp vi phạm đã rà soát (trong đó: tự tháo dỡ công trình vi phạm là 96 trường hợp; cưỡng chế 27 trường hợp). Số trường hợp tồn đọng chưa giải toả là 2.074 trường hợp.

Tổng số nhà xưởng, nhà ở, nhà tạm phải giải toả theo tinh thần Kế hoạch 93a/KH-UBND là 522 trường hợp (nhà xưởng, cửa hàng 97 trường hợp, nhà ở 193 trường hợp, nhà tạm 232 trường hợp), chiếm 23,75% tổng số vi phạm đã thống kê (số vi phạm trước Chỉ thị 02/CT-UBND là 406 trường hợp, sau Chỉ thị 02/CT-UBND là 116 trường hợp). Kết quả đến nay đã giải toả được 69/522 đạt 13,2% (trong đó vi phạm trước Chỉ thị 02/CT-UBND là 20 trường hợp, sau Chỉ thị 02/CT-UBND là 49 trường hợp).

2.2. Xử lý các vi phạm hành lang bảo vệ các công trình giao thông:

Đã xử lý, giải tỏa được 377/926 trường hợp, đạt tỷ lệ 40,7% so với số trường hợp đã rà soát. Còn tồn đọng chưa giải tỏa là 549 trường hợp, chủ yếu tập trung ở xã Phùng Hưng (485) và rải rác tại một số xã khác như An Vĩ, Liên Khê, thị trấn Khoái Châu,.... Hầu hết các trường hợp là vi phạm cũ, xảy ra từ trước 16/3/2016 (877/926).

2.3. Xử lý vi phạm công trình thủy lợi:

a. Xử lý vi phạm công trình thuỷ lợi:

Đã xử lý, giải tỏa được 70/75 trường hợp vi phạm sau 16/3/2016, đạt tỷ lệ 93,3% so với Kế hoạch; chưa giải tỏa xong 5 trường hợp gồm: An Vĩ (1); Chí Tân (2); Đồng Tiến (1); Thị trấn (1).

Sau giải tỏa tính đến 20/9/2019 còn 809 trường hợp vi phạm công trình thủy lợi. Trong đó:

- Vi phạm trên hệ thống do Xí nghiệp Châu Giang là 790 vi phạm gồm: Làm nhà, công trình phụ 684 vi phạm; Vi phạm khác, lều lán, lán trại:106 vi phạm.

- Vi phạm Bắc Hưng Hải 19 trường hợp bao gồm: 12 làm nhà, 2 trồng cây, 1 lều quán, 2 san lấn, 2 bến bãi.

b. Xử lý vi phạm hành lang bảo vệ đê điều và bến bãi kinh doanh VLXD:

Theo kết quả tổng hợp của Hạt quản lý đê, tổng số trường hợp vi phạm hành lang bảo vệ đê toàn huyện còn tồn tại là 96 trường hợp (trong đó 84 trường hợp trước Chỉ thị 02, 12 trường hợp sau Chỉ thị 02). Trong 96 trường hợp này có 40 trường hợp phá nhà cũ, xây lại, xây mới; 3 trường hợp sửa nhà cũ; 26 trường hợp xây công trình phụ; 17 trường hợp mở rộng; 6 trường hợp xây lán; 3 trường hợp xây dựng công trình khác (cơi nới cổng, trụ bê tông). Các trường hợp này đều là những hộ cải tạo công trình trên đất ở cũ nằm trong hành lang đê từ trước khi thực hiện dự án nâng cấp mở rộng mặt đê do vậy đề nghị xử lý, giải tỏa sau.

Số trường hợp vi phạm bến bãi tập kết vật liệu không nằm trong quy hoạch:  Có 10 bến đưa vào diện phải thanh lý, giải tỏa; trong đó đã thanh lý 08 bến ở Bình Minh 02, Dạ Trạch 02, Hàm Tử 01, Đông Ninh 02, Tân Châu 01 (các bến đã thanh lý có 1 bến ở Bình Minh, 1 Tân Châu, 1 Đông Ninh đã san gạt giải tỏa trả lại mặt bằng; các bến còn lại đang giải tỏa nốt số vật liệu để trả lại mặt bằng), 02 bến còn lại ở Tứ Dân, Nhuế Dương chưa giải tỏa được, đơn vị đang làm thủ tục đề nghị bổ sung quy hoạch.

 3. Tình hình xử lý trách nhiệm của các cá nhân, tập thể có liên quan tại thời điểm xảy ra sai phạm:

Trong thời gian từ sau khi UBND tỉnh ban hành Chỉ thị 02/CT-UBND, UBND huyện đã cử cán bộ Phòng TN&MT phối hợp với UBKT Tỉnh uỷ, kiểm tra trách nhiệm trong việc thực hiện Chỉ thị 02/CT-UBND và Kế hoạch 93a/KH-UBND của UBND tỉnh tại Thị trấn Khoái Châu. UBKT Tỉnh uỷ đã xử lý kỷ luật bằng hình thức Cảnh cáo đối với Bí thư Đảng uỷ, CT HĐND Thị trấn Khoái Châu, khiển trách đối với Chủ tịch UBND Thị trấn Khoái Châu.

Chủ tịch UBND huyện đã tiến hành thanh tra trách nhiệm đối với Chủ tịch UBND xã Hồng Tiến, An Vĩ, Chí Tân, Bình Minh trong việc thực hiện Chỉ thị 02/CT-UBND và Kế hoạch 93a/KH-UBND của UBND tỉnh. Sau thanh tra, Chủ tịch UBND huyện đã kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đối với Chủ tịch UBND và PCT UBND xã Hồng Tiến; HĐND xã đã họp, miễn nhiệm chức danh Chủ tịch, PCT UBND xã Hồng Tiến; xử lý kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đối với Chủ tịch UBND xã An Vĩ.