Vài nét về đền

  

Trên giải sông Hồng có ngôi đền thuộc thôn Nghi Xuyên xã Chí Tân, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Được nhà nước công nhận di tích lịch sử cấp Quốc Gia ( trong quần thể di tích lịch sử đình đền Cót). Cạnh đền phía Bắc có đền thờ Tứ Phủ, về phía Nam có đền thờ Mẫu hiệu Phương Hoa công chúa đời nhà Lê phong sắc trung đẳng thần - sinh vi đế nữ thị thần tiên, tạ vị trung đẳng Lưu Quốc Phả. Đền hình chữ Đinh nội cung ngoại sảnh, trong đền có nhiều cổ vật đồ đồng, sành , sứ, đồ gỗ, có bốn chiếc Ngai thờ, hai chiếc thờ Lão Ông, Lão Bà, hai chiếc thờ Đinh Lang và Hoàng Lang. Có bốn cánh cửa đời nhà Lý ban cho. Đục xuyên khổng bốn pho tượng văn tả trương ban Nguyễn Sáng và Lê Đẳng Tích, Trần Hưng hãy còn lưu giữ được, có ba hoành phi, một khảm trai vạn cổ anh linh, một bức thánh cung vạn tuế, một bức thượng đẳng linh từ. Có bức châm từ vua Tự Đức ban tặng. Trong ngọc phả đền có 20 sắc phong từ đời nhà Lý đến đời nhà Nguyễn. Vì thời gian quá lâu cho nên đã bị rách nát hiện còn 13 sắc phong những cổ vật quý hiếm. Vì đền xa làng cho nên kẻ xấu đã lấy trộm hiện nay chỉ còn những đồ quý hiếm bằng gỗ.

  Xung quanh đền có hàng cây si bao trùm toàn bộ đền, từ xã trông như một khoảng rừng, đến nơi mới hiện ra là ngôi đền. Các nhà khảo cổ về thực vật cũng không rõ nguồn gốc từ đâu và có từ bao giờ. Đền cũ chiều dài 6m, chiều ngang là 4m xưa kia là nơi hoang vu rậm rạp quá trình phát triển của nhân dân thôn Nghi Xuyên, được phép của Bộ Văn hóa, đền xây dựng và tu xửa lại năm 2005.

  Đền là nơi linh thiêng có tiếng trong vùng từ thời nhà Lê Trung Hưng đánh nhà Mạc, hàng năm mở hội vào ngày 10/2.

 Hải Hưng ngày 10 tháng 6 năm 1995. Sao y bản chính, người dịch: Lão nghệ nhân Thành Thái giám đốc sở Tăng Bá Hoành. Thuộc đời nhà Lý:

  Ở làng Thụy Trai huyện Vĩnh Thuận có ông bà Nguyễn Công, phúc hậu hiền lành nhưng muộn sinh nở, một hôm Thái Bà nằm mộng thấy sao rơi vào miệng bà sợ hãi nói với chồng. Nguyễn Công liền nói: " Nếu quả mộng như vậy tất trời cho sinh con, sự thực hư trong mộng hãy để nghiệm sau", được 100 ngày Thái Bà quả nhiên có mang đến kỳ mãn nguyệt khai hoa sinh ra một gái, sinh vào ngày 15 tháng 3 năm 1013 (Quý Sửu). Hình dung yểu điệu, mắt phượng mày ngài, mắt ngọc da trắng như Hằng Nga, môi son má phấn khi sinh thoang thoảng mùi hương xạ, ông bà rất yêu quý.

  Tròn 3 tháng đặt tên là Hiếu Nương, đến khi 3 tuổi, ngày 5 tháng 9 năm ấy Thái Công mắc bệnh qua đời, Thái Bà làm lễ an táng. Sau 3 năm phục tang, Thái Bà có một người dì lấy chồng ở phường Thụy Trai, huyện Vĩnh Thuận làm nghề buôn bán vải tơ lụa ở chợ Vĩnh Thuận, Thái Bà và Hiếu Nương ở với dì. Hiếu Nương đã đến tuổi trăng tròn 17 như một bông hoa, mười phần xuân xắc mười phân vẹn mười, như chim xa cá lặn, nguyệt thẹn hoa nhường, công dung ngôn hạnh, tứ đức vẹn toàn, cung thiên khóa ngọc thực gia nghiêng thành, trời âu đã định như ngọc còn đợi giá cao. Ngày nào đó vua Lý Thánh Tôn ra ngự ngoài thành mọi người tụ hội đến xem nhà vua, Vua Lý Thánh Tôn nhìn thấy Hiếu Nương đứng xem ở bên phải lề đường, thấy nàng dung nha rất đẹp nhà vua thầm nghĩ đây không phải là người thường quê có được cũng không phải là người con gái ở chốn Bồng Doanh thì cũng là một kiểu nương ở nơi Long Uyển. Vua rất đẹp ý hài lòng và sai sứ thần mang trầu cau đến hỏi cưới và nhà vua rước nàng về là thứ phi thứ 9.

Vua vui lòng sai lập cung tại phường Thụy Trai, cung chia làm 3 phần là Phúc Long mặt quay đầu về chầu tổ, đứng ở cổ rồng hai bên bờ chầu lại nhu non cao ở trước. Vua bèn chuẩn cho chỗ ấy là phường Thụy Trai là Thủ lệ. Từ đó Thủ Lệ nơi thượng uyển của nhà vua. Sau 3 năm Thái Bà lâm bệnh qua đời ở phường Thụy Trai nhà vua và bách quan đến làm lễ thụ tang. Qua 3 năm Hiếu Nương qua hồ tây tắm gội để vào chầu vua, trong lúc tắm gội thấy một con Rảo Long quấn chặt lấy Hiếu Nương lúc này Hiếu Nương bất tỉnh hôn mê, cung nữ rước Hiếu Nương về cung và từ đấy Hiếu Nương mang thai tới 14 tháng mới sinh.

 Một hôm Hiếu Nương ngồi ở hoa viên chợt thấy một đại trượng phu mình cao 9 thước đầu đội mũ rồng, mình mặc cẩm bào cưỡi rồng đến thẳng chỗ Hiếu Nương đang ngồi và nói rằng tôi vốn là con vua Thủy Long Quân tên gọi là Hoàng Lang mượn cửa nhà vua để sau này dẹp giặc an dân. Lúc này Hiếu Nương bừng tỉnh, ngày 13 tháng 12 năm Giáp Thìn bỗng có một trận giá to trời đất mù mịt mùi thơm phưng phức ở chốn phòng loan, ánh sáng rực rỡ ở cả loan phòng Hiếu Nương sinh ra một người con trai mình phượng, cổ rồng, hàm én, mày hổ dáng hình cao lớn, mặt mũi khôi ngô sau lưng có 28 ngôi sao như vẩy lân. Một hàng giữa cung có sao bắc đẩu diện điểm như hạt minh châu chia làm thất điền. Sinh được 7 ngày nhà vua cứ theo mộng mà đặt tên là Hoàng Lang. Lúc này có Trịnh Vĩnh Trinh khởi binh rối loạn tại kinh bắc, mang chục vạn hùng binh, trăm viên thượng tướng. Sức mạnh của giặc làm rung động cả kinh thành, vận nước nghiêng ngửa quan quân  lo sợ đành chịu bó tay, hàng ngày ở bên phòng tới tấp 4 - 5 lần cấp báo, nhà vua lo buồn bèn lập đàn tràng cầu tế trời đất. Trong khi lập đàn trời đất tối tăm 2 - 3 ngày, lúc này nhà Vua đang ngự tại cung Thái Hòa trời đang mưa gió nhà Vua thiếp đi thì thấy văng vẳng bên tai có tiếng vịnh thơ:

" Nước lúc lâm nguy có thánh tài,

Trời đã định rồi khá lo chi,

Bằng cầu tiên được thần nhân ấy,

Trịnh Vĩnh kinh hồn tán chạy ngay".

  Nhà Vua lúc này bừng tỉnh thầm nghĩ mộng này là do trời đất cho biết, nhà vua làm lễ hạ đàn và viết chiếu chỉ các bậc anh hùng hào kiệt ai có tài ra giúp nước an dân thành công sẽ trọng thưởng xứng đáng với công lao. Sứ thần đi đến đâu loa đến đó. Hoàng Lang hỏi mẹ: " Nhà vua có việc gì mà sai sứ thần như vậy" Hiếu Nương nói: " nước nhà đang có giặc Trịnh Vĩnh Trinh phiến loạn đánh phá khắp miền Nam Hải, nhân dân lầm than điêu đứng, triều đình vô kế khả thi, vận nước nghiêng ngửa. Bởi thế nhà vua cho sứ thần đi khắp thiên hạ chiêu mộ người tài, đức, ra giúp nước nay con còn nhỏ, miệng còn hơi sữa làm sao báo đáp lại nghĩa của vua cha". Hoàng Lang nói với mẹ cứ gọi sứ giả vào cho con, Hiếu Nương thấy làm kỳ lạ liền sai cung phi mời sứ thần vào, Hoàng Lang nói với sứ thần người về gấp tâu với vua cha cho ta một lá cờ lệnh cao 10 thước, voi béo khỏe mạnh mang lại cho ta thì giặc sẽ bị đánh tan nhà vua không phải lo gì. Sứ thần vội vã về tâu, nhà Vua nghe thấy sự kỳ lạ ngay ngày hôm sau nhà vua sai làm một lá cờ cán dài 10 thước, voi béo khỏe, quân tướng chừng 10 vạn, sai các quan trong triều văn có  Trương Bang Nguyễn Sáng, võ có đẳng tích Trần Hưng, ngoài ra còn có những giai tướng ở Thủ Lệ trong đó có Lê Công Súc, Nguyễn Công Hoàng đinh điển điều binh khiển tướng. Lúc này Hoàng Lang vươn mình đứng dậy, mình cao chín thước tay cầm cờ lệnh đạp chân vào mình voi, voi quỳ xuống từ đó sau lập đền thờ là đền thờ voi phục. Hoàng Lang phất cao cờ lệnh quân tướng dũng mãnh như sấm sét gió gào voi chạy như bay đi đến đâu, đầu giặc rơi đến đó khoảng 30 nghìn tên. Hoàng Lang một mình một voi sông thẳng trước mặt Trịnh Vĩnh Trinh, một trận thư hùng Vĩnh Trinh ngã ngựa bị chém đầu, quân tướng Trịnh Vĩnh Trinh hoảng loạn đầu hàng. Hoàng Lang thắng trận hồi binh qua đạo cát bằng huyện Đông An, phủ Khoái Châu làng cửa sông lúc này Hoang Lang tâm thần bất định, binh mã dừng chân tại làng cửa sông, các cụ dân làng cửa sông mang cót ra  quây chắn gió, sau lập đền thờ là đền Cót đổi tên làng cửa sông là làng Cót. Hoàng Lang nói với các cụ làng cửa sông, khi tôi về triều nếu có mệnh hệ nào thì tôi tâu với nhà vua, nhân dân cửa sông được bốn mùa hương hỏa. Hoàng Lang về triều nhà vua mở tiệc ăn mừng khoản đãi, vua vịnh một bài thơ: " Trời kia đã định có thánh minh quét sạch phong trần diệt giặc Trinh, đức trẫm ngời ngời trời chẳng phụ, ức nghiêng chẳng nát thế còn vinh", Hoàng Lang vịnh lại: " Ý trời cho xuống quyét phong trần để đức từ nay ngày một vinh, lúc nước thanh bình ca yên ấm một nhà thanh thái hội vua dân" nhà vua và bách quan đều vui mừng, vua liền phán cùng bách quan nhường ngôi cho Hoàng Lang, Hoàng Lang chắp lễ nhưng không nhận. Hoàng Lang trở về Thị Trai rồi lâm bệnh, nhà vua dùng tới hàng trăm vị lương y, nghìn viên dược liệu nhưng bệnh tình Hoàng Lang không hề thuyên giảm. Một hôm Vua đến thăm Hoàng Lang thấy Hoàng Lang ngày cang suy yếu. Hoàng Lang nói với Vua cha con vâng lệnh Ngọc Hoàng mượn cửa nhà Vua để dẹp giặc an dân lúc này đất nước đã thanh bình nhân dân yên ổn, con phải trở về Thủy Long Cung không được chậm trễ, trong khi thắng trận hồi triều qua đất cửa sông bô lão sai đón rước Hoàng Lang hỏi đây đâu? Các cụ bô lão tâu rằng đây là đất cửa sông , vậy xin Vua cha phê chuẩn cho dân cửa sông được bốn mùa hương hỏa. Nhà Vua liền hỏi công lao của con lớn như vậy, có điều gì Trẫm sẵn sàng phê chuẩn. Hoàng Lang tâu con chỉ xin xây một ngôi đền tại Thị Trai là nơi mẹ con sinh ra, hai là Thủ Lệ chỗ con xuất quân, bà là cửa sông, ba nơi Giao Hiếu, Thị Trai, Thủ Lệ, cốt ấp cửa sông. Từ xưa cứ 3 năm rước một lần, từ cửa sông cót ấp lên Thị Trai, Thủ Lệ và từ Thị Trai, Thủ Lệ về cót ấp cửa sông. Hiện nay đường đê bối ra đền gọi là đường ngự giá Hoàng Lang, tâu với nhà Vua thời gian không còn nữa, xin Vua cho ra phiến đá tại Hồ Tây, lúc sinh và nay là lúc hóa, Vua sai binh quan văn võ rước Hoàng Lang ra phiến đá tại Hồ Tây, lúc này nhà Vua hai hàng châu lệ lã chã nói với Hoàng Lang. Tuy không phải là con thật nhưng công sinh dưỡng nghĩa Vua con có điều gì cha sẵn sàng phê chuẩn. Hoàng Lang nói với Vua cha miễn giảm cho dân sưu thuế 3 năm. Hoàng Lang tâu với Vua cha khi con qua đất cửa sông, các cụ ra bái mạng dân đây hiếu khách vậy xin Vua cha cho nơi này 4 mùa hương hỏa, lúc này trời đất tối đen lại, sấm chớp ầm ầm Hoàng Lang hóa thành Rảo Long mình dài mười trượng vươn thẳng đến Hồ Tây rồi biến mất.

  Các cụ cửa sông nằm mơ thấy Hoàng Lang cưỡi voi về làng, lập tức cử người đi nghe ngóng thì quả nhiên Hoàng Lang đã hóa, và nhà Vua cũng cấp sắc phong cho làng cửa sông. Từ đó dân làng cửa sông lập đền thờ chờ ngài ngự gọi là đền Cót và cũng đổi tên làng là làng Cót.

  Năm 1533, nhà Mạc và nhà Lê tranh hùng, năm 1548 Thái Ùy họ Trịnh đem quân đánh Mạc chiếm thuyền của Thái Ùy qua đền cửa sông tức đền Cót xuống thuyền. Nửa đêm hôm ấy Thái Ùy mơ thấy một người cao lớn đầu đội mũ rồng đai ngọc, mình mặc áo bào, hai bên có 4 tướng đi kèm sừng sững đi xuống bản doanh,Thái Ùy đứng dậy chào hỏi, tướng quân từ đâu đến Hoàng Lang nói tôi thấy nhà Lê mở hội Trung Hưng để đánh giặc, thấy Thái Ùy mang quân qua đây nên tôi đến đây để giúp. 2 người bắt tay nhau cùng ngồi trò chuyện, Thái Ùy làm một bài thơ:      " từ trước tới nay bậc dĩ nhân cần lao cùng việc bảo quân, ân không ngờ lại gặp thiên thần đến cùng đồng tâm giúp nước nhà", Hoàng Lang cùng đọc tiếp: " Tuy tuổi xuân qua cùng một nhà, Anh Hoa thuyền lại ở đôi ta, non sông đau xót anh hùng cốt, sinh hóa vẫn còn như thủa xưa". Đang trò truyện thì Thái Ùy bừng tỉnh, đây là điềm tốt, liền bầy hương án lễ trời đất kéo quân đến thẳng Trần Thương đánh một trận đại thắng, Thái Ùy thắng trận hồi triều tâu với Vua Lê, nhà Vua phong Hoàng Lang thượng đẳng phúc thần và đổi tên Làng Cót là làng Nghi Xuyên, tiếng linh thiêng từ đó truyền đi, bởi vậy khách thập phương truyền nhau thường xuyên đến lễ bái cho đến ngày nay./.

Văn Hóa