Lịch sử hình thành Đền hóa Dạ Trạch

   

 Tên gọi: Đền Hóa, đền Dạ Trạch, Dạ Trạch Hóa từ.

  Sở dĩ có tên gọi "Dạ Trạch " vì dền nằm ngay trong vùng đầm Nhất Dạ Trạch, thuộc địa phận xã Dạ Trạch ngày nay. Và gọi là đền Hóa vì tương truyền đây chính là nền lâu đài cũa của Chử Đồng Tử - Tiên Dung để lại sau khi tất cả đã bay về trời.

  Nếu đúng như trong sách Lĩnh Nam Trích Quái viết (Nửa đêm trời bỗng nhiên sáng rực, lâu đài thành quách của Chử Đồng Tử - Tiên Dung bay cả lên trời, để lại đầm nước mênh mông. Quan quân sợ quá về tâu, Vua Hùng Duệ Vương đến tận nơi xem và truyền lập đền thờ, nhân dân bốn mùa cúng tế... ) thì đền Hóa có từ rất lâu rồi.

  Những truyện thế kỷ thứ V Triệu Quang Phục cầu đảo ở đây, thế kỷ XV Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đến đây cầu mộng, thế kỷ XVI các nhà thơ hội Tao Đàn đã làm thơ vịnh Chử Đồng Tử, có câu "Anh linh miếu dõi từng hương khói " vậy từ khi ấy đã có miếu thờ, đền thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung tại nơi này. Nhưng quy mô nhỏ, vật liệu xây cất thế nào và có đúng nơi đây là nền miếu cũ thì rất khó xác định.

  

  Đền Dạ Trạch khi ấy nằm trên gò đất cao, người dân muốn vào đền phải đi thuyền. Những năm đền mở hội, phải bắc một cầu tre cho người qua lại. Bước lên gò, các cụ phụ lão còn phải leo 19 bậc mới tới sân đền.

  Đền Hóa Dạ Trạch hiện nay mới được trùng tu cách đây khoảng 100 năm. Ao, đầm chung quanh được lấp kín, trước đền chỉ còn lại cái hồ bán nguyệt nhỏ. Bước lên đền hôm nay chỉ phải leo 4 bậc.

  Đền Hóa Dạ Trạch nhìn thẳng hướng chính Đông, xây theo kiểu chữ I (công) có ba tòa lộng lẫy. Đẹp nhất tòa thứ ba, tức hậu cung, mái vòm cuốn tam cấp, gợi cảm giác như đứng trong khoang thuyền. Gian chính diện, ở giữa là ba pho tượng lớn, tượng Chử Đồng Tử ngồi giữa, mặc hoàng bào. Bên trái là Tiên Dung, bên phải là Nội Trạch Tây Cung.

   

  Cũng ở gian chính diện, bên phải là bàn thờ Cha và Mẹ Chử Đồng Tử. Bên trái là bàn thờ Long Ngai, long vị Dạ Trạch Vương Triệu Quang Phục. Triệu Quang Phục trước đây được thờ ở một đền riêng. Do đền này đổ nát, dân làng phối tự về đây.

   Đền Dạ Trạch là một đền lớn và đẹp, nhiều cột lim to, nhiều hoành phi, câu đối ca ngợi sự tích, tôn vinh thánh Chử và Đạo của Ngài:

- Uất thông giai khí (khí tụ lại, phát dần lên).

- Âm dương hợp củng (Âm dương cùng hòa hợp)

- Sở quá giả hóa (Tự làm quá đi, vậy hóa thành cái khác)

- Nam thiên tứ vị (bốn vị thần trời Nam, ý câu này nhắc tới Chử Đồng Tử là một trong 4 vị "Tứ bất tử").

- Hải thượng tam thần (Ban vị thần ở trên biển. Câu này ca ngợi Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân hiển thánh bay về trời tại biển này )

  Cũng ở đền Hóa Dạ Trạch, gian giữa bên trái có tượng thần cá. Đó là "Bế Ngư thần quan". Tượng bằng gỗ, sơn son thiếp vàng, đầu rồng, thân và đuôi hình cá chép, nhân dân quen gọi là "ông Bế".

  Cùng bàn thờ và tượng ông Bế là hai con ngựa một đỏ, một trắng. Tương truyền Chử Đồng Tử - Tiên Dung thường cưỡi ngựa đi các nơi chữa bệnh cho nhân dân. Cả tượng cá, tượng ngựa đều có bánh xe, ngày hội dân làng đưa ra rước, người đi hai bên cầm lọng che.

  Đối diện với ngai thờ ông Bế, là một ngai thờ, bên bát hương có chiếc gậy, đầu gậy úp cái nón. Nón và gậy thần là biểu hiện phép tiên Chử Đồng Tử chữa bệnh cải tử hoàn sinh cho nhân dân.

  Đền Hóa Dạ Trạch nhìn thẳng ra một cái hồ, trước hồ có lầu chuông. Chuông này được đúc năm Thành Thái thứ 14 (năm 1902) mang tên Dạ Trạch từ chung (chuông đền Dạ Trạch). Ở đây còn dựng hai bia đá, có niên đại năm Gia Long thứ 17 (năm 1819).

  

 Đền Hóa ở sâu trong vùng đầm Dạ Trạch, nổi tiếng thâm nghiêm và linh thiêng. Trên gò đất phía sau đền ngày nay vẫn còn giữ được một ít cây cổ thụ, tạo cho đền Hóa một vẻ đẹp thâm u, huyền bí, thoát tục. Không khí linh thiêng trong đền quyện mùi nhang trầm, hương hoa, giữa mùa hè mà ở đây yên tĩnh dịu mát. Sau màn che, cửa võng là ánh đèn nến lung linh đưa con người về với tổ tiên, cội nguồn dân tộc nơi xa xưa, con người yêu nhau, hòa hợp với thiên nhiên, đánh giặc và xây dựng quê hương đất nước. 

Cách đây trên dưới 4000 năm lịch sử như trong thần phả của đền hóa đã ghi. Sau khi Chử Đồng Tử kết duyên cùng Tiên Dung công chúa tại bãi tự nhiên thuộc Màn Chầu (cuộc tình duyên do thiên định), không được vua cha thuận ý lên vợ chồng. Không giám hồi cung, ở lại khu vực huyện Chu Diên để kiếm kế sinh nhai.     

  Một hôm Chử Đồng Tử theo thuyền ra khơi đi buôn bán, dạt vào một hòn đảo, gặp được Tiên Ông tên là Ngưỡng Quy Tiên, ông thấy Đồng Tử diện mạo khác thường bèn giữ lại dạy cho một số bài thuốc chữa bệnh bằng lá rừng để cứu dân độ thế và dạy cho phép thuật. Sau 3 ngày ở động tiên, Đồng Tử đã biết được việc chữa bệnh, Tiên Ông cho phép Đồng Tử về, ban cho Đồng Tử chiếc gậy và nón và dặn: " Phép thần thông ở cả trong này, có việc gì nhà người cần kíp nhà ngươi cứ cắm trượng xuống đất, úp nón trên đầu trượng, đọc câu thần chú mọi việc sẽ được như ý muốn ".

Trượng, nón được thờ tại đền Hóa Dạ Trạch

  Một ngày kia, trong làng bỗng có bệnh dịch tả, Đồng Tử cùng Tiên Dung đi chữa bệnh cho nhiều người. Một hôm, vì mải chữa bệnh nên khi trời tối, nhớ lại câu thần chú của Tiên Ông dạy, Đồng Tử liền chống cây gậy và úp nón để tạm nghỉ. Nửa đêm thức giắc thì thấy mình ở trong một tòa lâu đài nguy nga, tráng lệ. Vua Duệ Vương thấy vậy thì tưởng rằng con rể định cướp ngôi, vua liền đem quân ra đánh bắt về trị tội. Khi quân nhà vua đến, thì cả tòa lâu đài bỗng chốc biến đâu mất, để lại nơi đấy một cái Trầm, gọi là Trầm Nhất Dạ, đó là đêm 17/11 âm lịch. Do đó có sự tích " Đầm Dạ Trạch " mà chúng ta biết ngày nay.

lễ hội Rước kiệu ra sông lấy nước

  Lễ hội diễn ra vào ngày 10/2 đến ngày 12/2 âm lịch. Hành trình của đám rước: Bắt đầu đi từ cửa đền Hóa Dạ Trạch đến bờ sông bến Vĩnh, lấy nước giữa dòng , xong quay lại đền.

  Trong lễ hội còn có rất nhiều trò chơi dân gian đặc sắc như: Chọi gà, đấu vật, đu bay, bịt mắt bắt dê, cầu kiều, đập liêu...

  Cùng với các loại hình nghệ thuật cổ truyền như: Ca trù, Ả đào, Hát giao duyên/ Hát đối, Hát văn, Quan họ, đội múa rồng, múa lân...

Múa rồng, múa lân chọi ga

Văn Hóa

Tin liên quan

LIÊN KẾT WEBSITE

Đánh giá của bạn về cổng thông tin điện tử






Gửi đánh giá Xem kết quả
48 người đang online